Michael Ballack - cựu danh thủ bóng đá Đức là người suốt sự nghiệp đã nhiều lần ở cách đỉnh vinh quang chỉ... một bước chân.
>>> Mario Kempes: Đấu sĩ huyền thoại chỉ một lần vung kiếm
>>> Michel Platini: Ông hoàng bị phế truất của nền bóng đá đang phục hưng
Ngày 15/5/2002, sân Hampden Park (Scotland) diễn ra trận chung kết Champions League giữa Bayer Leverkusen và Real Madrid. Phút thứ 45, Zinedine Zidane ghi bàn bằng một cú volley ngoài vòng cấm. Bàn thắng đó trở thành bất tử trong lịch sử bóng đá. Nhưng ít ai nhận ra Zidane đã thực hiện cú đá ấy ngay trước mặt cầu thủ hay nhất bên phía Bayer: Michael Ballack.
Hình ảnh hôm ấy giống như một định mệnh, gán vào đó cả sự nghiệp mênh mông và trái ngược của hai cầu thủ này. Zidane toàn bích, có tất cả danh hiệu từ cá nhân đến tập thể. Còn Ballack luôn đứng trước ngưỡng vinh quang, lặng nhìn đối thủ chiến thắng trong khi bản thân ôm trọn bi kịch.
Lịch sử luôn nói về những cú "ăn ba", nhưng lịch sử chưa bao giờ khắc lên đó một cú "ăn ba" về nhì như Bayer Leverkusen đã làm vào mùa giải 2001/02. Vào cái năm mà
Ballack vụt sáng thành ngôi sao ấy, cũng là năm đội bóng của anh có tất cả những sầu bi lớn nhất.
Khúc cua định mệnh cho sự nghiệp của Zidane và Ballack
Ngay từ khởi đầu, Ballack đã không hạnh phúc. Rồi anh mang hành trang ấy đến World Cup 2002, cùng đội tuyển Đức vừa chia tay cả một thế hệ vàng. Vậy nhưng, với Ballack thi đấu bùng nổ, "Die Mannschaft" đã tiến thẳng đến trận chung kết. Chính anh là người ghi bàn quyết định giúp Đức đánh bại đội chủ nhà Hàn Quốc trong trận bán kết.
Và cũng chính anh hy sinh tấm vé dự trận chung kết khi lao tới cản phá cơ hội ghi bàn của Hàn Quốc. Hơn 10 năm sau pha bóng đau đớn, người thủ lĩnh ấy vẫn trả lời rằng: "Nếu thời gian quay trở lại và cho tôi lựa chọn, tôi vẫn sẽ xoạc quả bóng ấy mà thôi". Sẵn sàng chấp nhận thương đau vì toàn cục, Ballack là một người đàn ông Đức hảo hạng.
Không khó hiểu khi anh nhanh chóng trở thành thủ lĩnh của “Cỗ xe tăng” Đức, kế thừa vai trò của những Lothar Matthaus, Matthias Sammer, Stefan Effenberg, Oliver Kahn... nhưng số phận đã đặt cả lên vai anh một "sa mạc" nước Đức cạn khô nhân tài, để bắt anh gách vác. Ballack đã ở đội tuyển Đức khi Jurgen Klinsmann, Oliver Bierhoff… vừa chia tay. Anh đã dìu dắt đội tuyển Đức khi Philipp Lahm và Bastian Schweinsteiger là hai cầu thủ non trẻ, còn Mario Gotze mới chỉ 10 tuổi.
Vậy mà chàng trai đó vẫn đủ sức kéo đoàn quân không ngôi sao ấy vào đến hai trận chung kết (World Cup 2002, EURO 2008) và giành huy chương đồng ở World Cup 2006. Nước Đức những năm tháng mà Ballack làm thủ lĩnh, chỉ có mình anh ở đẳng cấp hàng đầu thế giới, còn các đồng đội chỉ là những cầu thủ cơ bắp như Torsten Frings hay Carsten Jancker.
Ballack đóng góp rất lớn cho bóng đá Đức những năm đầu thế kỷ 21
Ballack giống như “ánh sáng duy nhất trong kỷ nguyên tăm tối của bóng đá Đức” nên những gì bóng đá Đức có trong những năm đầu thập niên 2000 là nhờ đóng góp rất lớn của anh. Đã làm được những điều phi thường cho nền bóng đá nước nhà nhưng đổi lại, chàng trai có đôi mắt thăm thẳm này chỉ nhận về mình những nỗi buồn, và cả những bạc bẽo của hai năm cuối cùng đời cầu thủ.
Khi nước Đức làm cách mạng với những Marco Reus, Mesut Ozil, Manuel Neuer… họ cần một đội trưởng biết dung hòa mọi thứ như Philipp Lahm hơn là một thủ lĩnh kiểu cổ điển mang dáng dấp “đại ca” như Ballack. Cá tính và sức ảnh hưởng của Ballack khiến Joachim Low và LĐBĐ Đức phải e dè. Sự tự vệ của họ nhằm bảo vệ một đội tuyển Đức "mới" đã gây tổn thương cho Ballack.
Anh như “hùm dữ sa cơ” mang trong mình sự uất ức đến cực độ. 98 trận đấu cho đội tuyển quốc gia, anh thiếu hai trận cuối cùng để gia nhập CLB 100. Và khi anh nói “Tôi không cần trận đấu thứ 100 ấy” là ta hiểu rằng anh từng thèm muốn nó biết bao. Gần một thập kỷ là người thủ lĩnh hét ra lửa, bỗng chốc nhận thấy mình như bị chối bỏ, sự đau đớn là điều khó tránh. Anh đã gồng gánh nền bóng đá Đức khi nó điêu tàn và giã từ tuyển Đức khi nó hùng mạnh. Ngày chia tay, anh như chiếc lá vàng đơn côi rơi trong gió.
Ballack có thừa tài năng, rất nhiều bản lĩnh. Anh chơi tốt cả hai chân, đánh đầu cũng rất giỏi, đa năng ở các vị trí tiền vệ, kiến tạo tốt, đánh chặn cũng hay, có thể dẫn dắt thế trận và sở hữu một lối chơi mạnh mẽ. Đặc biệt Ballack gói trọn được tinh thần thép của người Đức. Những cú đá phạt sấm sét, những lần bước lên chấm 11m luôn sắc lạnh như dao. Tài năng là vậy, nhưng số phận thì rất bất công với Ballack.
Ballack chịu không ít bất công trong cuộc đời cầu thủ
Anh ngã xuống, lại đứng dậy, lại đâm đầu vào một cuộc phiêu lưu mới, rồi lại ngã xuống, bi kịch nối tiếp bi kịch, vẫn không đánh gục được chàng trai này. Nhưng khi số phận cứ lần này đến lần khác hành hạ anh, thì đến cả nghị lực của anh cũng yếu lòng. Người ta không bao giờ quên được hình ảnh trong đêm mưa tại Moscow năm 2008, khi John Terry trượt chân trên chấm 11m, Ballack đã ngã quỵ xuống sân. Chứng kiến M.U giương cao chức vô địch
Champions League, người đàn ông bản lĩnh đó lần đầu tiên rơi nước mắt.
Ngày chia tay, anh nói rằng: "Đương nhiên những danh hiệu sẽ được đánh giá cao. Nhưng tôi hy vọng mọi người sẽ nhớ tới tôi như một cầu thủ đặc biệt". Ballack không sai chút nào, người hâm mộ nhớ rất nhiều về anh, chàng trai mang đậm vẻ đẹp Đức, tính cách Đức cổ điển, nụ cười hồn hậu khi có vinh quang nhưng bị che phủ bởi bao nhiêu là thất bại trước ngưỡng cửa thiên đường.
Các cổ động viên có thể yêu Zidane vì những nét đẹp trong mỗi đường bóng, có thể yêu Batistuta vì tính chung thủy, có thể yêu “Người ngoài hành tinh”
Ronaldo bởi những bàn thắng, thì họ đã yêu Ballack bằng chính những bi kịch trên đôi chân dũng cảm. Giá trị ấy đã biến anh thành kẻ chiến thắng.
Những lần về nhì của Ballack trong sự nghiệp:
Bundesliga (2 lần): 2001/02, 2010/11
Cúp quốc gia Đức: 2001/02
Champions League (2 lần): 2001/02, 2007/08
World Cup: 2002
Ngoại hạng Anh (2 lần): 2006/07, 2007/08
League Cup: 2007/08
EURO: 2008
Cầu thủ Đức xuất sắc nhất năm: 2008 |